Thông tin về cuộc đời của Thiền sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh – 1330-?) không có nhiều, nhưng đủ để người đời sau tôn vinh ông là một đại danh y, một vị Thánh thuốc Nam, ông tổ của ngành y dược Việt. Triết lý chữa bệnh của Tuệ Tĩnh là dùng Nam dược trị Nam nhân!
Tuệ Tĩnh quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ông có tên hiệu là Tráng Tử Vô Dật. Mồ côi mẹ lúc 6 tuổi Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều (Hải Dương) và chùa Giao Thủy (Nam Định) nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi ông đậu Thái học sinh (đệ nhị giáp tiến sĩ) dưới triều vua Trần Dụ Tông nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là thời gian ông học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Ông gây dựng nên phong trào trồng thuốc ở mọi nhà, khắp vườn chùa, từ cỏ cây, hoa lá, củ quả của Việt Nam, từ những bài thuốc đơn giản mà công dụng đã cứu được nhiều người bệnh nghèo khổ, dập được những trận dịch bệnh lớn trong nhân dân. Sự nghiệp y học của ông đã thúc đẩy việc trồng dược liệu ở Việt Nam phát triển. Ông còn truyền dậy cho người dân cách tìm loại cây chữa các bệnh thông thường, trồng trong vườn nhà, chùa làng để sử dụng khi cần thiết. Ông cũng hướng dẫn mọi người cách phòng tránh bệnh để có sức khỏe tốt.
Các công trình nghiên cứu của ông được soạn thành sách tiêu biểu như các tác phẩm “Dược tính nam chỉ” và “Thập tam phương gia giảm” (theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Tuệ Tĩnh không còn nguyên vẹn do nhiều nguyên nhân. Những tác phẩm còn lại cho đến ngày nay là đều do người đời sau thu thập tài liệu còn sót lại trong nhân dân để biên tập lại. Đó là bộ “Nam dược thần hiệu” do Hòa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc, Trung Đô (nay thuộc Hòe Nhai, Hàng Than, Hà Nội) biên tập, bổ sung vào năm Tân Tỵ (1761). Trong đó giới thiệu 580 vị thuốc Nam và 3.873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh.
Cuốn “Nam dược chính bản” do triều vua Lê Dụ Tông biên tập sau đổi thành “Hồng nghĩa giác tư y thư” được in vào năm Đinh Dậu (1717) gồm quyển Thượng và quyển Hạ. Trong đó quyển Thượng “Nam dược quốc ngữ phú” (Trực giải chỉ Nam dược tính phú) dùng chỉ dẫn tính năng các bài thuốc gồm 590 vị thuốc nam và “Trực giải chỉ nam dược tính phú” gồm 220 vị thuốc nam và một thiên y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch. Thiên này xuất hiện ở bản in lại năm 1723.
Cuốn “Thập tam phương gia giảm” có 242 vị, gồm 13 cách sử dụng gia giảm khi dùng thuốc (hay 13 bài thuốc nam). Trong mỗi phương thuốc đều ghi rõ công thức và cách dùng gia giảm như thế nào cho phù hợp,…
Những tác phẩm này của Tuệ Tĩnh đã để lại cho đời sau một tầm nhìn sâu rộng về y học của nước nhà. Vấn đề lý luận và thực tiễn vẫn luôn được kế thừa và phát triển cho đến ngày nay. Đặc biệt là cuốn “Nam dược thần hiệu” được coi là kim chỉ nam cho nhiều thầy thuốc.
Tuệ Tĩnh là người nắm vững y lý Đông y và là người có công đầu trong việc sưu tầm, nghiên cứu dược tính và chẩn đoán bằng thuốc Nam, phổ biến cho người dân những bài thuốc thông thường để có thể tự kiếm và điều trị. Tuệ Tĩnh luôn nhắc nhở mọi người chú ý đến nguyên nhân gây bệnh và khuyến khích mọi người tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng của việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Phương pháp dưỡng sinh được Ông tóm tắt trong 14 chữ:
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình” .